Khi nào hàng thừa kế thứ 2 được quyền thừa kế di sản?

Khi nào hàng thừa kế thứ 2 được quyền thừa kế di sản?

Pháp luật Việt Nam quy định rõ ràng về các hàng thừa kế, trong đó hàng thừa kế thứ 2 đóng vai trò quan trọng khi hàng thừa kế thứ nhất không còn hoặc không đủ điều kiện nhận di sản. Vậy, hàng thừa kế thứ hai gồm những ai? Khi nào họ được quyền hưởng di sản thừa kế? Cùng tìm hiểu chi tiết về vấn đề này trong bài viết sau bạn nhé!

Hàng thừa kế thứ 2 gồm những ai?

Tại điểm b, Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 có nêu rõ những người thuộc hàng thừa kế thứ 2 là những ai, cụ thể như sau:

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

Hàng thừa kế thứ hai gồm những ai được quy định rõ trong Bộ Luật Dân sự 2015

Hàng thừa kế thứ hai gồm những ai được quy định rõ trong Bộ Luật Dân sự 2015

Khi nào hàng thừa kế thứ 2 được hưởng thừa kế di sản?

Hàng thừa kế thứ hai không phải lúc nào cũng được quyền nhận di sản. Theo quy định của pháp luật, họ chỉ được hưởng di sản trong các trường hợp sau:

Không còn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất

Nếu không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất do đã qua đời, quyền thừa kế sẽ chuyển sang hàng thừa kế thứ hai.

Trong đó, hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. (quy định tại điểm a Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015)

Người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bị truất quyền thừa kế

Theo Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, người để lại di sản có quyền truất quyền thừa kế của một hoặc nhiều người thừa kế thông qua di chúc. Ngoài ra, Điều 621 cũng quy định những người có hành vi ngược đãi, có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản có thể bị tước quyền thừa kế theo quy định pháp luật.

Hàng thừa kế thứ 2 được nhận nếu hàng thừa kế thứ nhất bị truất hoặc tước quyền thừa kế

Hàng thừa kế thứ 2 được nhận nếu hàng thừa kế thứ nhất bị truất hoặc tước quyền thừa kế

Người thuộc hàng thừa kế thứ nhất từ chối nhận di sản

Theo khoản 1 Điều 620 Bộ luật Dân sự 2015, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.

Tuy nhiên, việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết trước thời điểm phân chia di sản.

Nếu tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất từ chối nhận di sản, quyền thừa kế sẽ chuyển sang hàng thừa kế thứ hai.

Theo di chúc

Mặc dù thừa kế theo pháp luật là cơ sở chính để hàng thừa kế thứ hai nhận di sản, nhưng nếu di chúc của người để lại di sản chỉ định rõ ràng những người thuộc hàng thừa kế thứ hai là người nhận di sản, thì họ vẫn được hưởng theo di chúc, bất kể có hàng thừa kế thứ nhất hay không.

Tại sao pháp luật ưu tiên chia di sản thừa kế theo di chúc?

Pháp luật Việt Nam ưu tiên chia di sản thừa kế theo di chúc vì những lý do sau:

– Tôn trọng ý chí của người để lại di sản: Theo Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Điều này thể hiện nguyên tắc tôn trọng quyền tự do cá nhân, đảm bảo tài sản được phân chia theo ý nguyện của người đã khuất.

– Đảm bảo công bằng theo nguyện vọng thực tế: Di chúc cho phép người để lại di sản phân chia tài sản dựa trên đóng góp hoặc mối quan hệ thực tế.

– Giảm thiểu tranh chấp thừa kế: Di chúc hợp pháp chính là căn cứ rõ ràng để phân chia di sản, hạn chế tranh chấp giữa các bên. Điều này đảm bảo sự minh bạch và công bằng, trừ trường hợp vi phạm quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.

Chia tài sản theo di chúc là tôn trọng ý chí của người để lại di sản

Chia tài sản theo di chúc là tôn trọng ý chí của người để lại di sản

Quy định về quyền thừa kế của hàng thừa kế thứ 2 được xây dựng dựa trên nguyên tắc công bằng và nhân văn của pháp luật Việt Nam. Hiểu rõ các quy định về thừa kế, không chỉ giúp cá nhân bảo vệ quyền lợi của mình mà còn góp phần xây dựng một xã hội văn minh, tôn trọng pháp luật.